Giới thiệu 3 thời kỳ nghiên cứu phân loại loài chuột

Trong lịch sử nghiên cứu và phân loại học trên thế giới, các nhà soạn thảo những công trình nghiên cứu về phân loại động vật đã tạm thời phân chia lịch sử phân loại thành 6 thời kì nh sau:

Thời kì thứ nhất:

Nghiên cứu khu hệ động vật địa phơng Việc phân loại động vật bắt đầu từ các bộ lạc, họ tiến hành phân loại động vật và thực vật thấy ở địa bàn sinh sống bởi nó liên quan trực tiếp đến đời sống của họ.

>> Sản phẩm thuốc diệt chuột Racumin 0.75 TP - thuốc diệt chuột

>> Sản phẩm thuốc diệt chuột Rat Kill - thuốc diệt chuột

>> Giận chồng mới cưới nên uống thuốc diệt chuột tự tử năm 2015

Mở đầu cho thời kì này là nhà bác học Hy Lạp cổ Hyppocrate (460-377 TCN). Ông đã kể ra các loài động vật nhng chỉ dừng lại ở sự liệt kê theo kinh nghiệm cha có sự biểu hiện chỉ dẫn về một sự phân loại nào đó. Ngời có công đặt nền móng cho khoa học phân loại là Aristot (384-332 TCN). Trong mấy năm sống ở đảo Lesbos, ông đã dành toàn bộ thời gian và sức lực vào nghiên cứu động vật học đặc biệt là nghiên cứu động vật biển.

Ông đã dựa vào phơng pháp nghiên cứu hình thái so sánh kết hợp với nghiên cứu phôi sinh học, cách sống của động vật và sinh thái học. Theo ông có thể biểu thị cách sống của động vật theo cách sống, tập tính thói quen và cấu tạo các phần cơ thể của chúng.

Ông đã áp dụng quan điểm triết học và lôgic học vào khoa học phân loại, những ảnh hởng triết học của ông đã ảnh hởng tới phân loại học còn lớn hơn cả sự phân loại do ông đề ra. Công trình nghiên cứu của Aristot đã để lại cho nhân loại lợng lớn kiến thức về phân loại học, về triết học và logic học hệ thống của Aristot đã thống trị phân loại động vật trong suốt thời gian 2000 năm tiếp theo nhiều thuật ngữ chuyên ngành động vật của ông vẫn còn đợc sử dụng cho đến nay.

Bên cạnh đó, thời kì này còn có các nhà khoa học khác nh: Genner (bộ bách khoa toàn thư nổi tiếng 1551-1558), bách khoa toàn th của Aldrvandi (1599) đó là những người kế tục sự nghiệp của Aristot. Trong đó Dray (1627-1705) là ngời đã xây dựng đựợc cách phân loại tự nhiên hơn cả. Nhìn chung trong thời kì này các nhà động vật là ngời đầu tiên đi tìm các nguyên tắc và phơng pháp mới.

Thời kì thứ 2: Line và những ngời cùng thời

Nhân vật nổi trội đại diện cho thời kì này là nhà tự nhiên học ngời Thụy Điển là Line (1707-1778). Sự nghiệp vĩ đại của ông đến nỗi ngời ta gọi ông là cha đẻ của phân loại học. Những công trình nghiên cứu của ông đã có những ảnh hởng toàn diện đến sự phát triển tiếp theo của ngành khoa học phân loại. Trong lần xuất bản lần thứ 10 tác phẩm Systema Naturae của mình (1758) lần đầu tiên ông đã áp dụng phơng pháp tên hai từ đối với động vật, mà cho đến nay hệ thống gọi tên hai từ đối với động vật vẫn đợc áp dụng. Ông là ngời kế tục vĩ đại phơng pháp phân loại học của Aristot đó là áp dụng logic học vào phơng pháp phân loại học.

Tuy nhiên Line và Aristot cũng có một số hạn chế khi áp dụng một cách triết học kinh viện thời kì trung cổ vào phân loại. Chính vì vậy mà việc lý giải sự xuất hiện của sinh giới và sự phân loại thiếu tính thuyết phục, mang tính nhân tạo. Song sự thuận tiện của bậc thang chặt chẽ các thứ hạng và danh pháp tên hai từ nhất quán rất to lớn nên các nhà phân loại kế tiếp Line không gặp nhiều khó khăn khi loại bỏ những hạn chế của ông. 

Line và các nhà phân loại thời kì này căn cứ vào một số dấu hiệu riêng lẻ, đơn giản cho việc phân loại. Vì vậy mà những sơ đồ định loại mang tính chất chân phơng, thờng dẫn tới việc tạo nên các nhóm hết sức không đồng nhất. 

Ví dụ: Plini đã phân động vật thành động vật ở đất, ở nớc, trên không tập trung các chi bởi nhóm chân màng, chim ở đầm có chân dài vào một nhóm Line xếp các động vật có râu vào một nhóm. Đây là những sai lầm của họ, đặc biệt biểu lộ trong Systema naturae của Line nhng có giá trị cho ngành phân loại học thời kì sau.

Thời kì thứ 3: Xu hớng kinh nghiệm

Khoảng thời gian 100 năm có lần xuất bản thứ 10 tác phẩm Systema naturae đến việc phát hành cuốn Nguồn gốc các loài của Đacuyn là thời kì không có những chuyển biến lớn nhng lại diễn ra liên tục, các nhà phân loại học ngày càng có xu thế tách các đơn vị phân loại bằng kinh nghiệm trên cơ sở của toàn bộ tổ hợp dấu hiệu chứ không phải là một dấu hiệu chủ yếu nh trớc. Do vậy cái mà những ngời kế tục Aristot coi là tự nhiên lại bắt đầu bị coi là tuỳ tiện nhân tạo. 

Nhà sinh học Lamac (1744- 1829) không có ảnh hởng rõ rệt lên sự phát triển của các sự kiện mà ông chỉ cống hiến thuần tuý trong việc thực hành phân loại động vật không xơng sống.  Cuvier (1769- 1832) có ảnh hởng rất lớn đến ngành khoa học phân loại, ông cho là hỗn hợp khác thờng các quan niệm lỗi thời và mọi thứ phân loại học thực hành thuần tuý nào đó. Ông đã phát hiện và khẳng định sự độc lập hoàn toàn của bốn ngành động vật chủ yếu là động vật có xơng sống, thân mềm, chân khớp, động vật có đối xứng toả tròn. Mặc dù sự phân chia này vẫn cha chính xác lắm xong thời kì này lại là một thành tựu to lớn trong ngành phân loại học. 

Đặc trưng của thời kì này là số lợng các loài động vật đã biết không ngừng tăng nhanh do các cuộc du lịch vòng quanh trái đất. Các nhà sinh vật học đã phát hiện ra những động vật ở Châu Phi, Châu úcvà hai miền Châu Mĩ. Đồng thời các chuyên viên đã tiến hành nghiên cứu từng nhóm động vật thay thế các nhà tự nhiên học địa phơng. Một sự kiện phi thờng trong thời kỳ này là các nhà sinh vật đã xây dựng nên Hệ thống tự nhiên theo nghĩa mới của nó.

Họ không thoả mãn với sự tìm kiếm (những dấu hiệu chung) đơn giản là nghiên cứu tất cả các phơng pháp mà các nguyên tắc cơ bản của việc phân loại và đã đạt đợc hiệu quả cao trong việc tạo nên các đơn vị phân loại tốt. Đặc biệt họ đã nêu lên các nguyên tắc đánh giá theo cách hậu suy các dấu hiệu. Các nhà phân loại học cũng tiến hành  đánh giá các hiện tợng ngắt quãng giữa các đơn vị phân loại khẳng định cấu trúc  thang bậc của các thứ hạng phân loại dựa vào mức giống nhau.